Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015

Vì sao luyện Ngọc nữ tâm kinh phải thoát y?

Hoa Văn - Xử nữ

(Vietkiemhiep) - Ngọc nữ tâm kinh là môn võ công lợi hại của phái Cổ mộ nhưng muốn luyện thành công môn võ này, 2 người nam và nữ đều phải thoát y.

Ngọc Nữ tâm kinh được nhắc tới trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung. Ngọc nữ tâm kinh là bí kíp võ công thượng thặng nhất của phái Cổ Mộ, được tổ sư sáng chế chủ yếu dùng để khắc chế võ công của Toàn Chân giáo.


Tuy nhiên, nếu sử dụng Ngọc Nữ Kiếm Pháp cùng liên thủ với Toàn Chân Kiếm Pháp sẽ tạo nên Song Kiếm Hợp Bích có uy lực kinh người.

Hai nhân vật chính trong Thần điêu hiệp lữ, thuộc phái Cổ Mộ là Dương Quá và Tiểu Long Nữ đã tình cờ phát hiện ra điều này. Sở dĩ có điều lạ lùng như vậy bởi vì Lâm Triều Anh (tổ sư sáng lập phái Cổ Mộ) không thể đến với người yêu là Vương Trùng Dương (tổ sư Toàn Chân giáo) nên đã chán ghét, quyết tạo ra võ công để chế ngự võ công của Toàn Chân giáo. Tuy nhiên, trong lòng bà vẫn luôn nhớ đến tình xưa nên đã khéo léo sáng tạo ra Ngọc Nữ Tâm Kinh, một môn võ vừa để khắc chế vừa để hỗ trợ võ công của Toàn Chân giáo.

Để luyện thành Ngọc nữ tâm kinh, trước hết phải luyện xong võ công cơ bản của Cổ Mộ phái, sau đó học tiếp võ công của Toàn Chân giáo. Khi đó mới có đủ khả năng để luyện Ngọc nữ tâm kinh.

Trong Thần điêu hiệp lữ, sư phụ Tiểu Long Nữ và học trò Dương Quá đã cùng tập luyện Ngọc nữ tâm kinh trong một khung cảnh rất lãng mạn là trong những luống hoa hồng và trong trạng thái phải khỏa thân. Hai người cũng đã phối hợp công phu này để chiến đấu với kẻ thù và nhiều phen thoát hiểm.

Nhưng có một điểm khá bất ngờ là Ngọc nữ tâm kinh tuy vậy vẫn còn thua Cửu âm chân kinh. Vì Dương Trùng Dương sau khi đã phát hiện ra Ngọc nữ tâm kinh, đã tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu và tình cờ gặp được Cửu âm chân kinh. Sau đó, ông đã khắc bộ Cửu âm chân kinh trên trần một căn phòng trong Cổ mộ, và rất tình cờ Tiểu Long Nữ và Dương Quá đã phát hiện ra.



Ngọc Nữ Tâm Kinh là khái niệm võ học trong tiểu thuyết Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung nằm trong bộ Xạ Điêu Tam Bộ Khúc.


Ngọc Nữ Tâm Kinh là môn võ công lợi hại nhất của phái Cổ Mộ, theo lời kể của Tiểu Long Nữ thì đây là môn võ công do tổ sư bà bà “Lâm Triều Anh” sáng tạo ra.


Nguyên nhân là do Lâm Triều Anh này từng có một mối lương duyên với tổ sư của phái toàn chân là Vương Trùng Dương, hai người này tuy yêu nhau nhưng không đến được với nhau vì quá nhiều mâu thuẫn, Lâm Triều Anh vừa yêu vừa hận nên đã sáng tác ra Ngọc Nữ Tâm Kinh dựa trên võ công của Toàn Chân Giáo nhưng lại khắc chế hoàn toàn võ công của Toàn Chân Giáo.


Ngọc Nữ Tâm Kinh muốn luyện thành phải trải qua 3 giai đoạn: – Thứ nhất phải luyện hết võ công của Toàn Chân Giáo (Toàn Chân Kiếm Pháp) – Thứ hai phải luyện hết võ công của phái Cổ Mộ – Thứ ba mới luyện Ngọc Nữ Tâm Kinh


Đặc điểm đặc biệt của môn võ này, khi luyện tập phải có người cùng luyện và phải cởi bỏ quần áo trong lúc luyện công.


Nguyên nhân là do lúc luyện tập khí nóng trong cơ thể phát ra nếu có quần áo khí nóng chạy ngược vào thể nội nhẹ thì tẩu hoả nhập ma, nặng thì chết ngay tức khắc.


Lúc luyện Ngọc Nữ Tâm Kinh chia ra Âm Tiến và Dương Thoái, luyện Dương Thoái thì có thể ngừng lại nghỉ nhưng Âm Tiến thì phải liên tục không được đức quãng nếu không tẩu hoả nhập ma chân khí chạy ngược vào lục phủ ngũ tạng.



Khi luyện thành nếu song kiếm hợp bích với Toàn Chân Kiếm Pháp thì trở thành Ngọc Nữ Tố Tâm Kiếm Pháp uy lực tăng lên rất nhiều lần.

-------------------------

Võ công, bí kíp ...





Lý Mạc Sầu & tâm sự kẻ lụy tình

Bao Triêu Thanh

“Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ hà nhân bất thức quân” 
(Cao Thích)

Kẻ phụng hiến toàn phần cho tình yêu thường ít thấy. Kẻ hận tình đến cùng cực càng khó kiếm hơn. Trong số những nhân vật của Kim Dung, duy nhất chỉ có một nhân vật yêu đến cuồng si và cũng chìm xuống tầng sâu nhất của hận tình, đó chính là Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu.

Hiếm có một tác gia nào dựng lên được nhiều hình tượng phụ nữ đa dạng như Kim Dung. Ta tôn thờ sự băng khiết của Tiểu Long Nữ, ta yêu mến trí thông minh tinh nghịch của Hoàng Dung, cảm phục sự thông tuệ của Vương Ngữ Yến, ngậm ngùi với tính nhẫn nhịn hy sinh của ni cô Nghi Lâm. Ta cũng không thể không kinh sợ trước sự lạnh lùng của Diệt Tuyệt Sư Thái, giận dữ trước tính tính ác độc của A Tử cô nương. Còn với Lý Mạc Sầu? Không thể nào không căm phẫn trước những hành động tàn ác của nàng. Nhưng khi Lý Mạc Sầu bị độc hoa tình hành hạ, tự lao mình vào đám lửa rực cháy chốn Tuyệt Tình Cốc và hát lên lời cuối: “Tình là gì hỡi thế gian? Lời thề sinh tử đa mang một đời” trong tuyệt tác “Mộ chim nhạn” của tác giả Nguyên Hiếu Vấn, ta không khỏi cảm thấy đôi chút ngậm ngùi cho số phận của nàng.

Lý Mạc Sầu nhất quyết là một kẻ dám yêu hết mình và sẵn sàng hy sinh tất cả để có được tình yêu. Những lời thề non hẹn biển và chút ít tình cảm của Lục Triển Nguyên dành cho nàng đã khiến nàng trở thành kẻ phụng hiến hết mình cho tình yêu. Khi con tim lên tiếng, đó là khi lý trí câm lặng. Lý Mạc Sầu đã sẵn sàng vứt bỏ con đường khổ luyện để tranh ngôi chủ nhân của Cổ Mộ phái. Nàng cũng chấp nhận trở thành kẻ phản bội sư môn khi đạp tan những lề luật nghiệt ngã của sư phụ chỉ để được ở bên người trong mộng Lục Triển Nguyên. Nhưng khi quyết liệt bước ra khỏi đường hầm an toàn mà cũ kỹ của Cổ Mộ để hồi hộp bước trên lối đi đầy sắc màu của tình yêu thì cũng là lúc nàng nhận ra đó là con đường cụt. Mối tình si được hứa hẹn đáp đền, giờ bị giũ bỏ phũ phàng.

“Vấn thế gian tình thị hà vật? Trực giao sinh tử tương hứa” trong tuyệt tác “Nhạn khâu” của Nguyên Hiếu Vấn đã trở thành câu hát đầu môi gắn liền với số phận của Lý Mạc Sầu. Tình là gì mà lúc trước ấm nồng tình ý, giờ gặp lại như người xa lạ? Cô gái tuổi đôi mươi với trái tim băng khiết lần đầu hồi hộp bước ra khỏi bốn bức tường của Cổ Mộ đã vấp phải câu hỏi hóc búa nhất mà ngàn năm nay người ta chẳng thể giải thích được: Tĩnh thị hà vật?” “Vấn thế gian” nhưng Lý Mạc Sầu đâu có hỏi thế gian? Nàng đang hỏi chính mình bởi nàng quá lụy tình. Nàng đã hy sinh tất cả, đã si cuồng với trái tim yêu mãnh liệt nhưng “trăng thề còn đó trơ trơ” mà “người tình đã bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ”. Lý Mạc Sầu phải làm gì? Quay lại Cổ Mộ phái ư? Sư phụ Lâm Triều Anh của nàng chắc chắn sẽ không chấp nhận một kẻ đã phản bội sư môn. Nàng cũng không còn hy vọng bám víu gì vào tình yêu của Lục Triển Nguyên được nữa khi họ Lục đã quyết tâm ruồng rẫy. Khắp thiên hạ đều nhìn thấy nàng là một kẻ thất tiết, si dại và đáng bị coi thường.

Từ tột đỉnh của hạnh phúc, Lý Mạc Sầu đã rơi xuống vực thẳm của cay đắng. Trái tim son trẻ hằn những nhát chém của số mệnh đã trở nên khô kiệt tình yêu và chỉ còn đó những giọt độc hoa tình. Lòng kiêu hãnh của người con gái si mê bị tổn thương đến cùng cực. Không chỉ tình yêu mà hận thù cũng có ma lực che mờ lý trí. Thế gian khinh thường ta, đã vậy ta chẳng thèm coi thế gian là gì! Ta sẽ vẫn “điểm phấn tô son lại. Ngạo với nhân gian một tiếng cười”. Ta sẽ trả thù kẻ bội tình. Ta sẽ gây thù chuốc oán với thiên hạ xem thử các ngươi có dám khinh nhờn ta không.

Lý Mạc Sầu đã chọn cho mình một lối đi đầy oan nghiệt. Nàng tạo cho mình một bản mặt lạnh lùng, một tính cách tàn nhẫn và gieo rắc oán hờn, gây bao đau đớn sóng gió trong giới giang hồ. Những gia đình yên ấm bị nàng tận diệt. Những đôi lứa hạnh phúc bị nàng chia lìa. Khi bị người tình chối bó, Lý Mạc Sầu đã trở thành kẻ chối bỏ tất cả hạnh phúc của những người khác. Tưởng rằng phá tan hanh phúc của người mình yêu sẽ làm vết thương lòng dịu lại. Tưởng rằng hủy hoại thanh danh mình sẽ khiến người mình yêu hồi tâm chuyển ý. Tưởng rằng trả thù sẽ giải tỏa được mối hận trong lòng. Nhưng không, nàng đã nhầm! Con đường Lý Mạc Sầu đã chọn chỉ khiến nàng thêm lún sâu vào cái bẫy của số phận do chính nàng giăng ra chứ không thể nào đưa nàng đến lối thoát mà mình hằng tìm kiếm.

Ẩn sâu trong tâm hồn Lý Mạc Sầu là một nữ nhi thật yếu đuối. Dù có được che phủ bởi những “Băng phách ngân châm” hay “Ngũ độc thần chưởng”, dù có thể đánh bại những cao thủ bậc nhất nhưng nàng vẫn một ngàn lần là kẻ yếu đuối. Lý Mạc Sầu yếu đuối vì nàng không đủ sức mạnh đối diện với thất bại trong tình trường. Nếu như Lâm Triều Anh với lý trí hơn người có thể xây nên cổ mộ để chôn chặt mối tình của mình với Vương Trùng Dương và dồn nén tình yêu của mình thành những chiêu kiếm tuyệt đỉnh của Cổ Mộ phái thì Lý Mạc Sầu không đủ lý trí để làm như vậy. Nàng quá yếu đuối để nỗi thất tình bỗng trở thành mối hận tình khôn nguôi. Nàng càng yếu đuối thì thù hằn càng che mờ lý trí và biến nàng thành kẻ độc ác bậc nhất thiên hạ. Nhưng phải chăng trong con người nàng chỉ có sự hận thù?

Trên mỗi cánh cửa chùa đều có hình ông Thiện ông Ác cũng như trong mỗi con người chúng ta Thiện-Ác luôn luôn tồn tại. Khi lý trí mạnh mẽ và tâm hướng Thiện, cái Ác sẽ bị đẩy lùi. Nhưng Lý Mạc Sầu vốn cả đời sống dưới lòng Mộ Cổ, va chạm xã hội gần như không có. Lần đầu bước chân ra chốn giang hồ theo mách bảo của con tim thì mối tình si với người mình yêu bỗng thành tình phụ. Nàng lại vốn là người sống bản năng chứ không thiên về lý trí. Cái Ác đã nảy mầm khiến tính cách nàng trở nên tàn bạo. Sự hận thù đã khiến nàng trở nên mù quáng. Nhưng Lý Mạc Sầu không phải lúc nào cũng tàn nhẫn đến mức cùng cực. Khi nhìn thấy chiếc khăn tay đính ước kỷ vật của mình trao cho người yêu, nàng đã dùng tay không hạ sát Lục Vô Song đứa con của kẻ phụ tình mà nàng hằng căm hận.

Và tính Thiện trong con người Lý Mạc Sầu được thể hiện rõ nhất khi nàng bắt cóc hài nhi Quách Tương. Khi đó, Lý Mạc Sầu tưởng rằng đứa trẻ là con tư sinh của Tiểu Long Nữ và Dương Quá. Mà nàng vốn căm ghét Tiểu Long Nữ bởi Long cô nương dường như có được tất cả những gì mà Lý Mạc Sầu không có được. Tiểu Long Nữ được sư phụ Lâm Triều Anh cưng chiều ưu ái. Tiểu Long Nữ được giang hồ ngưỡng mộ chứ không như nàng bị mọi người căm ghét. Và hơn tất cả, Tiểu Long Nữ có được tình yêu son sắt của Dương Quá chứ không như nàng hẩm hiu ôm mối hận tình với Lục Triển Nguyên.

Theo thực tế thông thường và với bản tính tàn nhẫn vốn có, Lý Mạc Sầu sẽ xuống tay hạ sát hài nhi Quách Tương. Nhưng không! Chính sinh linh nhỏ nhoi và yếu ớt đó đã khiến tính Thiện trong con người nàng trỗi dậy. Tình yêu trong trái tim nàng có thể đã chết nhưng tình mẫu tử và nỗi khát khao làm mẹ vẫn còn nguyên vẹn. Lý Mạc Sầu đã chăm chút cho đứa bé mặc dù nó là nghiệt chủng của những người mà nàng căm ghét. Thậm chí khi đã bại trận và cam chịu chết dưới tay Hoàng Dung, nàng vẫn một lòng xin cho đứa bé được sống sót. Phải chăng những giây phút gần gũi con trẻ là lúc bản năng của người phụ nữ trỗi dậy mạnh mẽ khiến Lý Mạc Sầu sống những giây phút Thiện nhất trong cuộc đời đầy giông bão của mình?

Khi Lý Mạc Sầu lao mình vào lửa, dường như đó cũng là lúc nàng nhận thấy những gì mình suốt đời ra công tìm kiếm thật xa vời. Trái tim trinh nguyên của nàng đã phụng hiến hết cho mối tình đầu với Lục Triển Nguyên. Vậy nên khi bị phụ tình, trái tim đầy tổn thương chẳng thể nào rung nhịp với bất cứ một chàng trai nào khác nữa. Làm sao Lý Mạc Sầu có thể yêu được nữa khi ký ức của mối tình đầu quá lớn lao. Cả một đời yêu, cả một đời hận để rồi đến lúc chết vẫn không thể quên được hình bóng kẻ phụ tình và cũng là mối tình duy nhất: Phải chăng đó là lý do khi bị thiêu đốt trong đám lửa và từ giã cõi đời, nàng đã tự nhận thấy mình quá lụy tình để cất lên lời hát cuối: “Vấn thế gian, tình thị hà vật?”

Tôi rất thích hai câu thơ của thi sĩ Cao Thích đời Đường, ngẫu nhiên câu thơ lại có tên của Lý Mạc Sầu: “Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ - Thiên hạ hà nhân bất thức quân” (xin tạm dịch nghĩa: Đừng buồn khi trước mặt chẳng có ai là người tri kỷ - Chẳng nhẽ thiên hạ lại không có ai hiểu được mình sao). Chẳng nhẽ người ta cứ mãi thù ghét Lý Mạc Sầu? Trong bản Thần Điêu Hiệp Lữ mới được hiệu đính, có thể thấy Kim Dung đã phần nào thông cảm với mối lụy tình đến mức cực đoan của Lý Mạc Sầu. Theo đó, Lý Mạc Sầu đã tâm sự rằng Lục Triển Nguyên vốn hứa hẹn rất nhiều với nàng khi còn đôi lứa mặn nồng. Nhưng gặp lại nhau, họ Lục đã hoàn toàn thay đổi, dửng dưng. Khi nàng đau khổ nhất thì đó là lúc họ Lục mời nàng đến dự đám cưới của mình với người khác. Lý Mạc Sầu đã thống hận đến mức thổ huyết ngất đi và sau đó mới quyết định trả thù mối hận tình và trở thành kẻ tàn nhẫn bậc nhất giang hồ. Kim lão gia đã cho nàng cơ hội nói ra được mối hận tình, phải chăng đó là sự an ủi phần nào danh cho Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu?



-------------------

Bài liên quan:

Năm Cam - Canh bạc cuối cùng - FREE DOWNLOAD

Năm Cam - Canh bạc cuối cùng 
Tác giả : Thanh Trì 
Thể loại : Hình sự 
Giới thiệu : Sách Năm Cam - Canh bạc cuối cùng là cuốn sách tổng hợp về cuộc đời và những vụ án khét tiếng của Năm Cam.

Về Năm Cam :

Trương Văn Cam hay Năm Cam (1948 - 2004) là một trùm xã hội đen ở Việt Nam, đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm Cam còn là nhân vật chính trong Vụ án Năm Cam và đồng bọn nổi tiếng Việt Nam.

Năm Cam và băng nhóm của mình trong quá trình bảo kê các nhà hàng karaoke và các tụ điểm đánh bạc ở Thành phố Hồ Chí Minh đã gây nhiều tội hình sự. Năm Cam bị tòa án Việt Nam tuyên có tội tháng 10 năm 2003 và bị tử hình vào tháng 6 năm 2004.

Vụ xét xử Năm Cam và đồng bọn đã gây sự chú ý của dư luận Việt Nam và trên thế giới. Số lượng tội phạm ra hầu tòa là 155, ở mức kỷ lục. Vụ xử sơ thẩm kéo dài từ tháng 2 đến tháng 6 năm 2003 với bản án dài hàng trăm trang.

Việc phá được vụ án Năm Cam được báo giới và chính quyền Việt Nam công nhận là một chiến công lớn trong phòng chống tội phạm. Bên cạnh đó vụ án cũng được coi là mang ý nghĩa chống tham nhũng.


Thứ Hai, 30 tháng 3, 2015

Quách Phá Lỗ

Cát Tường

(Vietkiemhiep) - Quách Phá Lỗ là nhân vật phụ trong Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung. Quách Phá lỗ là con trai út của cặp vợ chồng Quách Tĩnh - Hoàng Dung, là em song sinh với Quách Tương. Quách Phá Lỗ cũng là em của Quách Phù - con gái đầu của Quách Tĩnh - Hoàng Dung. Xét về diện mạo Quách Phá Lỗ rất giống cha, mày rậm, mặt vuông, chậm chạp nhưng cẩn thận, chắc chắn. Cái tên Phá Lỗ là do Quách Tĩnh đặt cho chàng với ý nghĩa "tiêu diệt quân Mông Cổ".

Quách Phá Lỗ sinh ra trong lúc quân Mông Cổ tấn công thành Tương Dương. Tuy nhiên hoàn toàn không giống với người chị Quách Tương hay Quách Phù, cuộc đời chàng bình lặng, không có gì đặc biệt, ít xuất hiện trong truyện.

Khi thành Tương Dương thất thủ, Quách Phá Lỗ tự vẫn cùng cha mẹ. Theo truyền thuyết, Quách Phá Lỗ là chủ sở hữu đầu tiên của thanh Đồ Long đao.



------------------

Bài liên quan:

Kim Luân Pháp Vương

Cát Tường


(Vietkiemhiep) - Kim luân pháp vương là nhân vật trong tiểu thuyết võ hiệp "Thần điêu hiệp lữ" của nhà văn Kim Dung. Trong truyện, Kim luân pháp vương là Đệ nhất quốc sư Mông Cổ, và là nhân vật phản diện trung tâm. Lần đầu tiên Kim luân pháp vương xuất hiện là tại Anh hùng đại yến. Tại đây lão cùng 2 đệ tử là Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba tỉ thí võ công với các cao thủ võ lâm trung nguyên nhằm trở thành đệ nhất minh chủ võ lâm. Ý định này bị đổ vỡ do có Dương Quá phá đám và Tiểu Long Nữ ra mặt tỉ thí cùng Kim luân pháp vương. Lúc này võ công lão hay sử dụng là võ công sử dụng Ngũ luân, môn võ công rất lợi hại nhưng bị khắc chế bởi Song kiếm hợp bích của Dương Quá và Tiểu Long Nữ. Từ đó lão rất úy kị và căm ghét 2 người này.


Khi lão cùng bọn Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây, Mã Quang Tá tấn công vào cung Trùng Dương của Toàn Chân phái và đánh nhau với Tiểu Long Nữ, lão bị Dương Quá (lúc này đã cụt tay và luyện được võ công thượng thừa) dùng Huyền thiết kiếm chém xuống đầu khi đã bị thương, may nhờ đệ tử trung thành là Đạt Nhĩ Ba xả thân đỡ kiếm và cầu xin Dương Quá tha mạng (Đạt Nhĩ Ba tưởng nhầm Dương Quá là đại sư huynh đầu thai). Dương Quá mải lo cho Tiểu Long Nữ đang bị thương nên tha mạng cho 2 thầy trò lão, đuổi về Tây Tạng.

16 năm sau, Kim luân pháp vương trở lại Trung Nguyên. Lúc này lão đã luyện thành Long Tượng Bát Nhã Công, môn công phu bí truyền của phái Mật Tông ở Tây Tạng nên quyết tìm Dương Quá và Tiểu Long Nữ để báo thù rửa hận. Lúc này lão gặp con gái thứ 2 của Quách Tĩnh và Hoàng Dung là Quách Tương. Thấy Quách Tương thông minh lanh lợi, lão nảy sinh ý định nhận nàng làm đệ tử nhưng Quách Tương tìm mọi cách từ chối. Khi lão dẫn Quách Tương đến Tuyệt Tình Cốc tìm Dương Quá, lão bị 3 đại cao thủ võ lâm là Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng Đại Sư và Chu Bá Thông vây đánh và điểm huyệt lão. Lão lừa Quách Tương giải huyệt cho lão rồi bắt nàng làm con tin và đem trói trên đài cao trước thành Tương Dương nhằm uy hiếp Quách Tĩnh và Hoàng Dung. Cao thủ võ lâm trong thành xông ra tử chiến cùng quân Mông Cổ giúp Quách Tĩnh và Hoàng Dung cứu con gái. Đang giao chiến ác liệt thì Dương Quá và Tiểu Long Nữ xuất hiện. Dương Quá giao đấu cùng Kim luân pháp vương. Kim luân pháp vương chiếm thượng phong do Dương Quá vì vui mừng khi gặp lại Tiểu Long Nữ nên bộ chưởng pháp Ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng không dùng được nữa(bộ chưởng này chỉ khi lòng đầy buồn bã mới phát huy hết sức mạnh).

Lúc sinh tử, Dương Quá đau buồn vì sắp phải xa lìa Tiểu Long Nữ nên xuất thần tung ra 1 tuyệt chiêu trong Ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng làm Kim luân pháp vương ngã xuống khỏi đài cao. Vừa ngã xuống lão đã bị Chu Bá Thông ôm chặt, đài cao đang cháy đổ ụp xuống người lão, lão chết cháy trong đống lửa.

Kim luân pháp vương chết mà chưa hoàn thành tâm nguyện là tìm truyền nhân cho bộ Long Tượng Bát Nhã Công.

------------------

Bài liên quan:

Lâm Triều Anh

Cát Tường

(Vietkiemhiep) - Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung, hai nhân vật chính là Tiểu Long Nữ và Dương Quá đều là thành viên của phái Cổ Mộ. Người sáng lập ra phái Cổ Mộ là một nữ nhân xinh đẹp tên là Lâm Triều Anh. Tuy nhiên, Lâm Triều Anh có thể xem là một nhân vật ảo, vì mặc dù được đề cập đến trong truyện, nhưng khi đó bà đã qua đời.


Phái Cổ Mộ là một trong những môn phái kỳ lạ và ít người nhất trên chốn võ lâm giang hồ, vốn có quy định chỉ nhận toàn nữ nhân (riêng trường hợp Dương Quá là ngoại lệ). Lâm Triều Anh nguyên là người yêu của Giáo chủ Toàn Chân Giáo Vương Trùng Dương - người được xem là đệ nhất võ lâm thiên hạ khi đã chiến thắng trong Hoa Sơn luận kiếm lần thứ nhất. Vì không thể thành thân với người yêu, bà trở nên oán ghét đàn ông và lập ra môn phái Cổ Mộ ngay phía sau Chung Nam Sơn, bản địa của phái Toàn Chân. Sau này, đồ tôn của bà là Tiểu Long Nữ thành hôn với phản đồ phái Toàn Chân là Dương Quá.

Bí kíp chân truyền của phái Cổ Mộ là Ngọc Nữ Tâm Kinh, đây là môn võ công tâm đắc nhất của Lâm Triều Anh.

Lâm Triều Anh có tánh hơn thua với Vương Trùng Dương, nên võ công do bà sáng chế ra hầu như là để khắc chế võ công của Toàn Chân giáo.

Là tri kỷ của Lâm Triều Anh, sau khi đoạt được Cửu Âm Chân Kinh sau chiến thắng tại Hoa Sơn Luận Kiếm lần thứ nhất, Trung Thần Thông Vương Trùng Dương đã khắc bộ kinh thư này trong một động đá ở phái Cổ Mộ (Lâm Triều Anh đã mất trước Hoa Sơn luận kiếm). Cho nên sau này, trong phái Cổ Mộ cũng tồn tại một bản Cửu Âm Chân Kinh ghi trên đá.

Đồ tôn của Lâm Triều Anh là Tiểu Long Nữ và Dương Quá đã phát huy được võ học của bà, luyện thành Ngọc Nữ Kiếm Pháp với tuyệt chiêu Song Kiếm Hợp Bích oai trấn giang hồ.

--------------------

Bài liên quan:




Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

Ngắm dung nhan mê hoặc lòng người của sư tổ phái Cổ Mộ

Hoa Văn

(Vietkiemhiep) - Hẳn các fan nhớ rằng trong Thần điêu đại hiệp, Tiểu Long Nữ là người của phái Cổ Mộ, vốn chỉ toàn là nữ. Người sáng lập phái Cổ Mộ là Lâm Triều Anh, trong tác phẩm nhân vật này đã qua đời từ nhiều năm trước. Mọi người chỉ có thể hình dung đây là một cô gái xinh đẹp, từng là người yêu của Trung thần thông Vương Trùng Dương - đệ nhất thiên hạ võ lâm (trong võ lâm ngũ bá).

Lâm Triều Anh - sư tổ phái Cổ Mộ là một cô gái xinh đẹp

Trong tác phẩm điện ảnh Thần điêu đại hiệp phiên bản 2014, đạo diễn Vu Chính đã có sáng tạo khi cho sư tổ của Tiểu Long Nữ xuất hiện.

Khi những hình ảnh chính thức về người sáng lập phái Cổ Mộ – Lâm Triều Anh được công bố, đã khiến khán giả ngây ngất vì nhan sắc tuyệt đẹp của nàng.

Đảm nhận vai Lâm Triều Anh trong Thần điêu đại hiệp 2014 là nữ diễn viên Đổng Tuyền. Lâm Triều Anh có trang phục rực một sắc đỏ, làm càng tôn lên vẻ lạnh lùng, pha chút u sầu song cũng hết mực kiều diễm.

Sánh vai cùng Đổng Tuyền Lâm Triều Anh, là nam diễn viên Nghiêm Khoan trong vai Vương Trùng Dương được đánh giá là xứng đôi vừa lứa.

Hãy cùng ngắm nhan sắc mê hoặc lòng người của Lâm Triều Anh.






Cặp trai tài gái sắc Lâm Triều Anh - Vương Trùng Dương

------------------

Bài liên quan:



Mối tình Dương Quá - Tiểu Long Nữ - Nghĩ người, ngẫm ta...

Bác sỹ Lê Trung Ngân

(Vietkiemhiep) - Hôm qua, ngồi đọc lại bộ truyện "Thần điêu đại hiệp" ở những khúc gay cấn nhất. Dương Quá biết Tiểu Long Nữ bị Doãn Chí Bình làm nhục, Lý Mạc Sầu chết, Dương Quá thành thân với Tiểu Long Nữ tại Trùng Dương Cung (Toàn Chân phái), Tiểu Long Nữ biệt tích, Dương Quá đau khổ nhưng quyết sống chờ 16 năm sau gặp lại, anh luyện võ cùng Thần Điêu và sau này mang danh Thần Điêu Hiệp,...

Cô cô và Quá Nhi



Phải nói một câu thật lòng rằng tác giả Kim Dung là nhà văn khiến tôi ngưỡng mộ nhất. Tôi ngưỡng mộ ông thông qua những tiểu thuyết võ hiệp mà ông viết nên. Ân oán, tình yêu, tình bằng hữu,... đan xen nhau theo một tình tiết rất hợp lý, nó khiến cho người đọc mải mê không nỡ rời. Minh chứng dễ nhất chính là các tác phẩm của ông đã lần lượt được chuyển thể thành phim, truyện tranh, game,...

Quay lại với 2 nhân vật chính của chúng ta là Dương Quá và Tiểu Long Nữ. Đôi tình nhân này đã có một tình yêu khiến nhiều người ghen tị. Tình yêu của họ vượt qua những lễ giáo mà lúc bấy giờ người người đều không thể chấp nhận - sư phụ yêu đệ tử và cả hai muốn tiến tới hôn nhân. Hai con người này đã thật mạnh mẽ, họ không ngại miệng đời cũng như những ánh nhìn khinh khi. Ngày qua ngày, tình yêu sâu đậm của họ đã được chứng minh và dần thuyết phục được cái quan điểm cổ hủ của những người xung quanh.

Khi chiến đấu, nếu một trong 2 người bị thương thì người kia lo lắng, phân tâm. Những lần xa nhau rồi lại trùng phùng giữa họ dường như được tác giả Kim Dung cố ý sắp xếp ngay những lúc có đông đủ bá quan văn võ hay những lúc giao tranh. Dương Quá và Tiểu Long Nữ đã ôm nhau thắm thiết, hỏi thăm nhau và bất chấp cả cuộc chiến đang diễn ra. Thế mới biết, so với tình yêu thì những quan niệm tầm thường, những ý nghĩ xấu xa, những cuộc chiến tranh giành lợi lộc đều trở nên vô nghĩa và thấp bé.

Tình yêu giữa họ không phải chỉ trong một ngày, hai ngày mà phải trải qua nhiều tháng, năm và hoạn nạn có nhau mới được hình thành. Xa nhau thấy nhớ, gần nhau thấy ấm nồng. Đó mới là những giai đoạn đích thực của một tình yêu. Trong khi đó, giới trẻ ngày nay, vừa gặp đã bảo yêu nhau. Tuổi chưa quá tròn trăng đã phải làm mẹ. Yêu hôm nay rồi mai chia tay. Tiếng yêu thời đại này nói dễ vậy sao?

Tiểu Long Nữ bị nội thương rất nặng, lại thêm trúng độc. Lục phủ ngũ tạng và kinh mạch đều đã ngấm độc nên tính mạng bị đe doạ. Biết trước sẽ không sống thêm được lâu. Dương Quá biết rõ tình trạng nguy kịch của thê tử nên khi được trao thuốc giải độc hoa tình (loại hoa trong truyện - ai bị gai đâm trúng thì càng nhớ người yêu, độc tính phát tác càng mạnh)

16 năm - lời ước hẹn sẽ tương phùng của Tiểu Long Nữ khắc trên vách đá nhắn nhủ phu lang của mình. Lúc đó, Dương Quá đã vô cùng đau khổ nhưng dưới sự an ủi của Hoàng Dung về việc Tiểu Long Nữ theo Nam Hải thần ni trị bệnh đã tạo cho anh niềm tin thê tử mình còn sống. Kể từ đó, chàng ngày đêm luyện kiếm với Điêu huynh của mình. Sau khi đã thành thục thì lên đường hành hiệp, cứu vớt bá tánh - dân chúng xưng tụng Thần Điêu Hiệp. Tuy đã trải qua chục năm nhưng tình cảm anh dành cho người mình yêu vẫn sâu đậm. Có những lúc trầm ngâm nhìn về biển Nam để hoài niệm lại những kỉ niệm xưa và trông đợi sự trở về của thê tử. Từ đó mới thấy, đâu là tình sâu, đâu là nghĩa nặng. Nếu yêu rồi có thể dễ dàng chia tay thì thử hỏi tại sao trước khi chết Lý Mạc Sầu lại thốt lên câu: "Hỡi thế gian tình là gì? Mà sinh tử tương giao? Thiên Nam địa Bắc?"...

Hãy ngẫm và xem lại bạn đã yêu một cách chân thật chưa? Đã có thể xem an nguy của người mình yêu hơn cả an nguy bản thân chưa? Đã có thể 16 năm dài đằng đẵng chờ đợi 1 người chưa? Đã có thể vì yêu mà bất chấp tất cả chưa?... Nếu chưa thì bạn đừng có mạnh miệng nói từ "Yêu"...

-----------------

Bài liên quan:

Tam Quốc diễn nghĩa - La Quán Trung - FREE DOWNLOAD



Tam Quốc diễn nghĩa
Tác giả : La Quán Trung
Dịch giả: Phan Kế Bính & Bùi Kỷ
Thể loại : Tiểu thuyết
Giới thiệu : 
Tam quốc diễn nghĩa (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: sān guó yǎn yì), nguyên tên là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, là một tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc được La Quán Trung viết vào thế kỷ 14 kể về thời kỳ hỗn loạn Tam Quốc (190-280) với khoảng 120 chương hồi, theo phương pháp bảy thực ba hư (bảy phần thực ba phần hư cấu). Tiểu thuyết này được xem là một trong bốn tác phẩm cổ điển hay nhất của văn học Trung Quốc.

Nguồn gốc:


Tam quốc diễn nghĩa được biên soạn bởi La Quán Trung, nhưng thực ra bộ tiểu thuyết này trước sau đã trải qua một quá trình tập thể sáng tác lâu dài của rất nhiều người.


Trước La Quán Trung, từ lâu chuyện Tam quốc đã lưu hành rộng rãi trong dân gian truyền miệng, các nghệ nhân kể chuyện, các nhà văn học nghệ thuật viết kịch, diễn kịch, đều không ngừng sáng tạo, làm cho những tình tiết câu chuyện và hình tượng các nhân vật phong phú thêm.


Cuối đời Nguyên đầu đời Minh, nhà tiểu thuyết La Quán Trung đã viết bộ Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa chính là đã dựa trên cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của nhân dân quần chúng. Dĩ nhiên trong khi viết ông có tham khảo những bản ghi chép của các nhà viết sử và các nhà văn khác (Tam quốc chí của Trần Thọ, Tam quốc chí chú của Bùi Tùng Chi), nhưng quan trọng hơn là phần thể nghiệm cuộc sống phong phú của bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của ông.


Một trong những bản Tam quốc diễn nghĩa ra đời sớm nhất hiện nay còn giữ được là bản in năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Trị đời Minh (1494), năm Nhâm Ngọ Gia Tĩnh (1522) gồm có 24 cuốn 240 tiết. Từ đó về sau (gần 300 năm) nhiều bản Tam quốc đã lưu hành, nhưng nội dung đều không có gì khác nhau lắm.


Truyện Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung so với bản truyện kể của đời nhà Nguyên, đại khái có mấy đặc điểm như sau:




  • Tước bớt một số phần mê tín, nhân quả báo ứng và những tình tiết "quá ư hoang đường".
  • Viết thêm, làm nội dung cuốn truyện phong phú thêm rất nhiều, tô vẽ tính cách và hình tượng nhân vật cho sâu sắc, đậm nét hơn.
  • Nâng cao ngôn ngữ đến mức nghệ thuật, tăng cường thêm sức hấp dẫn của nghệ thuật.
  • Làm nổi bật lên một cách rõ ràng và mãnh liệt nhân dân tính và xu hướng tính văn học là yêu Lưu Bị, ghét Tào Tháo, hướng về nước Thục chống lại nước Ngụy trong toàn cuốn sách.

Nói tóm lại La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong truyện Tam quốc mà nhân dân quần chúng và những nghệ nhân kể chuyện đã sáng tác ra, nâng cao lên thành một tác phẩm văn học lớn lao nổi tiếng.


Đầu đời Thanh, hai cha con Mao Luân, Mao Tôn Cương (người Tràng Châu tỉnh Giang Tô) lại bắt đầu tu đính truyện Tam quốc. Công việc tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ 18 (1679).


Mao Tôn Cương đã gia công, thêm bớt, nhuận sắc những chi tiết nhỏ, sắp xếp lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời trùng hoặc những chỗ chưa thỏa đáng. Ông đã tước bỏ rất nhiều những chương tấu, những bài bình luận, tán rộng trong phần chú thích, thay đổi một số câu thơ lẫn lộn văn kể với văn vần, v.v... và thêm vào đó những lời bàn, dồn 240 tiết thành 120 hồi, lại đặt cho bộ Tam quốc cái tên là "cuốn sách đệ nhất tài tử". Làm cho truyện càng hoàn chỉnh, văn kể trong sáng, gọt giũa, trên một mức độ nào đó cũng đã làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả. Từ đó bản của Mao Tôn Cương thay bản của La Quán Trung, tiếp tục được lưu truyền rộng rãi.


Năm 1958, Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh đã chỉnh lý lại nhiều, bằng cách dựa vào bản của Mao Tôn Cương hiệu đính rất kỹ từng câu, từng chữ, từng tên riêng có đối chiếu với bản của La Quán Trung rồi sửa chữa lại những chỗ mà bản của Mao Tôn Cương đã sửa hỏng, sửa sai với nguyên bản của La Quán Trung, nhưng nói chung vẫn giữ nguyên bộ mặt của bản Mao Tôn Cương. Còn những tên lịch sử đặc biệt như tên người, tên đất, tên chế độ... nếu cả hai bản trên đều sai, thì hiệu đính lại theo sử sách. Nên các lần in sau hầu hết đều lấy theo bản in này.

Link tải : Tam Quốc diễn nghĩa Định dạng pdf | Định dạng prc | Định dạng epub

Thứ Năm, 26 tháng 3, 2015

Lục mạch thần kiếm - Kim Dung Fake - FREE DOWNLOAD

Tên sách : Lục mạch thần kiếm
Tác giả : Kim Dung
Thể loại : Tiểu thuyếtKiếm hiệp
Giới thiệu : 
Lục mạch thần kiếm là phần tiếp theo của bộ Thiên long bát bộ
Nhắc lại Ðoàn Dự theo Vương Ngọc Yến , A Châu , A Bích từ Mạn Ðà Sơn Trang trở lại Thính Hương Tĩnh Xá ở Yến Tử Ổ trong khu vực Cô Tô Mộ Dung thì đã thấy hai phải Thanh Thành và Tần Gia Trại đã đến đó từ trước , tìm Mộ Dung công tử để báo thù , rồi giữa hai phái này lại phát sinh xung đột .
Trong lúc hai phái đang đánh nhau kịch liệt thì đột nhiên Bao Tam tiên sinh , một nhân vật bản lãnh tuyệt luân , trong phe Cô Tô Mộ Dung tự nhiên xuất hiện và chỉ trong khoảnh khắc đã làm cho trại chủ Tần Gia Trại là Diêu Bá Ðương cùng chưởng môn phải Thanh Thành là Tư Mã Lâm phải táng đởm kinh hồn .
Tư Mã Lâm thấy Bao Tam tiên sinh mải mê nói chuyện cùng Vương Ngọc Yến không thèm đếm xỉa đến mình , sinh lòng ghét cay ghét đắng , quên luôn cả cái ơn cứu mạng vừa xong , liền vẫy tay ra hiệu cho mọi người phái Thanh Thành đi về.

Lục Mạch Thần Kiếm

Lục mạch thần kiếm là tên một loại tuyệt kỹ võ công xuất hiện trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Theo đó, đây là 1 trong 2 tuyệt kỹ độc môn truyền nội không truyền ngoại của nước Đại Lý: Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch thần kiếmNhất Dương Chỉ là bộ chỉ pháp được truyền dạy trong hoàng tộc Đại Lý, còn Lục Mạch thần kiếm thì chỉ có những đệ tử xuất gia của Thiên Long tự mới được truyền dạy (nhiều vị vua và hoàng tộc Đại Lý khi về già tu hành tại chùa này). Theo truyện Thiên long bát bộ, nhân vật Đoàn Dự là người duy nhất có thể sử dụng trọn vẹn cả 6 mạch kiếm khí; điều kì lạ là Đoàn Dự lại là một chàng trai hào hoa, phong nhã, vốn ghét việc luyện võ công lại có thể luyện thành thần công trong khi các cao tăng của Thiên Long Tự khổ công tập luyện đều không thành. Bộ thần kiếm này được sánh ngang với Dịch Cân Kinh của Thiếu Lâm Tự nên nó thu hút các võ lâm cao thủ chiếm đoạt và tiêu biểu nhất là Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí. Về chiêu thức, Lục mạch thần kiếm không phải là một kiếm thuật mà là loại kiếm khí. Trong Thiên long bát bộ, Lục mach thần kiếm được tu luyện dựa trên cách vận hành khí tâm pháp yếu chỉ riêng rồi dùng Nhất Dương chỉ phát triển thành kiếm khí. Sáu mạch của bộ kiếm pháp này bao gồm:


  1. Tiểu tử - Thiếu trạch kiếm (ngón út tay trái)
  2. Tả hữu tiểu tử - Thiếu xung kiếm (ngón út tay phải)
  3. Tam quy kinh mạch - Quan xung kiếm (ngón áp út – ngón đeo nhẫn – tay phải)
  4. Trung chỉ - Trung xung kiếm (ngón giữa tay phải)
  5. Bàn thực chỉ - Thương dương kiếm (ngón trỏ tay phải)
  6. Mẫu chỉ - Thiếu thương kiếm (ngón cái tay trái)

Link tải : Lục mạch thần kiếm.epub | Lục mạch thần kiếm.mobi | Lục mạch thần kiếm.pdf | Lục mạch thần kiếm.prc

Thứ Tư, 25 tháng 3, 2015

Đèn Cù – Trần Đĩnh – Tập 2

Tình trạng: Online, Download, Audio

Nói về Đèn Cù


Đèn Cù cuốn I của Trần Đĩnh xuất hiện giữa mùa Thu năm nay đã được chiếu cố và hoan nghênh từ nước ngoài về lại trong nước. Cuốn sách, với lối văn nói, trình bày nội dung phóng khoáng, rất người và rất thực, đã thu hút người đọc với vô số chuyện xảy ra mà tác giả là vai chính hay ít ra là nhân chứng. Chuyện “cung đình” cộng sản, điều mà ai trong chúng ta, tò mò hay không tò mò, cũng đều muốn biết.
“Truyện tôi” của Trần Đĩnh kể lại với cái tôi của người viết, đương nhiên, và chỉ một người viết này mới có cái tôi như thế… “Một lối kể tếu táo của người chứng kiến, không cần đưa ra dữ liệu, ai tin thì tin, không tin thì thôi… ” như nhận xét của nhà văn Vũ Thư Hiên.

Trần Đĩnh cho biết từ ngày Đèn Cù I xuất hiện, cuộc sống (của ông) quả có gặp “khó khăn.” Các mối giao dịch xưa nay trở nên “lạ lùng, kỳ quái,” theo lời của tác giả. Cũng còn là may vì đừng quên rằng tác giả vẫn còn sống dưới chế độ “kỳ quái” được mô tả rành rọt trong cuốn sách. Vì may mắn nào mà Đèn Cù II vẫn còn được tiếp tục xuất hiện và hy vọng tới tay bạn đọc?
Không, không có gì thay đổi cả. Vẫn giọng văn ấy, vẫn “lối kể tếu táo” ấy, và với những muộn phiền ấy trong cuộc sống của chế độ mà tác giả cố gắng luồn lách qua ngày… Những điều trông thấy mà đau đớn lòng… Trải dài trên mấy trăm trang giấy, đọc mệt luôn!
Cuốn II tiếp tục tiết lộ nhiều chuyện ly kỳ… xin trưng dẫn vài chuyện:
Chuyện ông Hồ, đúng ra chuyện giả cụ Hồ. Ở nước nào, cộng sản hay không cộng sản, lãnh tụ nào cũng sợ bị ám sát, chết không kịp ngáp. Thế nên mới có chuyện nhờ người giả dạng lúc xuất hiện trước công chúng. Chuyện nghe cũng bình thường thôi và không có chi lạ. Vậy lạ ở đây là cái gì? Xin nghe tác giả thuật lại chuyện của người đã giả ông Hồ theo lời kể của Xương.
“Chuyện của Xương nói chung rất khác người. Rất bông phèng:”
“Có lần anh hỏi tôi năm 1946, lúc còn là thiếu niên tiền phong… có ra ga Hàng Cỏ đón ông Bác đi tàu thủy ở Pháp về Hải Phòng rồi lên Hà Nội bằng xe lửa. À, có đón hả?
“Xương cười nói tiếp: Thế thì cậu hoan hô với vẫy hão rồi. Hôm ấy ở xe lửa xuống, cụ lên dự cuộc đón tiếp công khai xong là có người dắt đi, bịt râu, đi tắt trong sân ga đến chỗ thằng Qua, thằng này sau là cục trưởng cục trại giam, chờ sẵn lái đưa cụ đi.
“Sợ phản động nó xơi mà. Còn Bác trên xe chính thức giễu phố là một cậu lâu ngày tớ quên tên nó mất rồi, thằng này giống ông cụ kinh khủng, nó đeo râu giả làm ông cụ, nhòm ra vẫy đồng bào. Phản động phơ thì thằng này hứng…
“Đến cải cách ruộng đất, tay hình nhân này bị đấu tố là địa chủ phản động gian ác, suýt ngỏm. Nó khóc: Tôi từng đóng thay Bác Hồ để phản động có bắn thì tôi chết thay bác, thế nhưng phản động không bắn mà nay Ðảng lại bắn tôi, ôi bác Hồ ơi, hu hu… ”
Chuyện thứ hai liên quan đến cuộc sống của công nông trong cái “thiên đường cộng sản” đó. Ly kỳ lắm vì rằng lương của họ chỉ đủ sống 10 ngày… mà vẫn sống. Lương chỉ đủ sống 10 ngảy, người nói câu đó không phải là “một tên phản động, tàn dư Mỹ ngụy… ” mà là Trường Chinh, Tổng bí thư đảng.
Trần Đĩnh viết:
“Tái xuất giang hồ, Trường Chinh có một câu quá hay: Lương của công nhân viên chức chỉ đủ để sống trong mười ngày.

“Hoàng Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột. Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày. Trường Chinh cau mày khó tin – bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả đế quốc đến thế?
“Hôm sau [Trường Chinh] bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn mười ngày. 
“Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói Phải cứu giai cấp công nhân!

“Hay thật! Ở một nước do giai cấp công nhân lãnh đạo mà đảng phải cứu giai cấp công nhân ra khỏi đồng lương bóc lột? Tôi thấy ở đó một khẩu lệnh hành động. Trường Chinh rất giỏi đề khẩu lệnh. Nhưng ông không nói cứu công nhân khỏi tay ai? Và thằng khốn nào nó bóc lột công nhân?
“Song dân biết rất rõ cái cơ chế gà què mổ lẫn nhau nó cho phép bộ máy với lương sống mười ngày vẫn cù cưa được cả tháng, tất nhiên ở mức khốn nạn… ”
Thế là xong, hết thắc mắc. Nói chung cho cả nước.

Gia đình Trần Đĩnh còn gặp khó khăn hơn với nạn đánh Hoa Kiều sau khi đương sự bị đuổi. Tại sao? Bà Trần Đĩnh là người Hoa.
“Tôi bị đuổi việc so với cái họa của Hồng Linh vợ tôi, còn sướng hơn nhiều. Một sáng, phó phòng tổ chức Nhà hát giao hưởng – hợp xướng – Nhạc vũ kịch Việt Nam gọi Linh đến bảo: 
“Chị phải đi khỏi Việt Nam. Và đi một mình, vì Trần Đĩnh không được phép đi đâu cả, còn con gái chị là người Việt Nam nên phải ở lại. Chị không đi, mai kia phòng tuyến Bắc Giang vỡ là sẽ tập trung các người Hoa như chị vào một khu vực xa lắm, khổ ra.”

Tại sao Trần Đĩnh tiếc nuối chế độ? Bị cho nghỉ việc, không lương, vợ bị trục xuất. “Trong biên bản khai cung năm 1968, tôi (tác giả) viết:
“Chân lý Mác Lê nay như một vòm pha lê vở vụn, mỗi anh nhận một mãnh và bảo đó là chân lý chung.

“Tôi nhìn đảng như một quái vật hai đầu. Một đầu của cô gái xinh đẹp là cuộc tổng khởi nghĩa và một đầu nghiệt ngã dữ dằn là đảng hiện nay. Có khi muốn đẩy cái đầu dữ đi thì đầu cô gái mà tôi mê lại khuyên ráng chịu.”
Một chế độ công an trị đang vây bủa. Một lưới trời (thiên võng) đang chụp trên đầu cả nước, chỉ có internet, họa hoằn lắm, mới qua lọt.
Vẫn từng đó người trong từng đó chức vụ, của đảng, của chính phủ, của quốc hội, của đoàn… nối tiếp nhau… Voi giấy ối a, ngựa giấy, ơi tít mù nó chạy vòng quanh…
Đèn Cù 2 Đọc Online





Đèn Cù 2 Download PDF



Link dự phòng: Click here